Báo cáo triển vọng phát triển châu Á năm 2022 được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 6-4 dự báo kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi ở mức 6,5% trong năm nay và tăng trưởng mạnh hơn ở mức 6,7% trong năm 2023.
Dự báo lạc quan trên của ADB được đánh giá dựa trên cơ sở tỷ lệ tiêm chủng cao, đẩy mạnh thương mại, tiếp tục thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng.
Trong khi đó, ngày hôm qua (5-4), báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 4-2022, Ngân hàng Thế giới (WB) đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 từ mức 6,5% trước đó xuống còn 5,3%.
Ngày 6-4, ADB tổ chức họp báo công bố Báo cáo tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát cùng nhiều vấn đề khác của nền kinh tế.
Giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Báo cáo của ADB nhận định rằng tỷ lệ tiêm chủng cao của Việt Nam cho phép chính phủ bỏ các biện pháp kiềm chế đại dịch nghiêm ngặt, gây gián đoạn. Sự chuyển hướng kịp thời trong chiến lược kiểm soát dịch bệnh giúp khôi phục hoạt động kinh tế và giảm sự bất ổn trong môi trường kinh doanh.
Khảo sát của Tổng cục Thống kê về xu hướng kinh doanh trong lĩnh vực chế biến chế tạo cho thấy 81,7% số doanh nghiệp được hỏi tin rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn vào năm 2022. Trong quí 1-2022, tăng trưởng GDP đạt mức 5%, cao hơn mức 4,7% của năm trước.
Quốc hội đã phê chuẩn gói giải pháp tài khóa và tiền tệ, ước tính lên đến 15 tỉ đô la Mỹ để triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế (ERDP) trong năm 2022 và 2023. Theo ADB, các giải pháp tiền tệ của ERDP sẽ cung cấp thêm thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc các tổ chức tín dụng dự kiến giảm lãi suất cho vay 0,5–1,0% trong năm nay và năm sau và tiếp tục thực hiện các biện pháp hỗ trợ tín dụng đến hết năm tới.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 là 14%. Việc cắt giảm lãi suất và nhu cầu tín dụng phục hồi của các doanh nghiệp giúp đạt được chỉ tiêu này, nhận định của ADB trong báo cáo.
Cũng theo ADB, thị trường lao động phục hồi và các biện pháp kích cầu khác sẽ thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp ở mức 9,5% vào năm 2022 theo dự báo, đóng góp 3,6 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP.
Công nghiệp đã khởi đầu mạnh mẽ trong năm nay. Chỉ số nhà quản trị mua hàng đã lên 53,7 trong tháng 1-2022 (trên 50 cho thấy sự mở rộng) và lên 54,3 vào tháng 2 so với mức 52,5 trong tháng 12-2021, tháng tăng trưởng thứ tư liên tiếp.
Sản lượng nông nghiệp được dự báo sẽ tăng 3,5% trong năm nay, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP nhờ sự phục hồi của cầu nội địa và giá hàng hóa toàn cầu tăng. Các chính sách tái mở cửa du lịch của Chính phủ thực hiện vào tháng 3 vừa qua và dự kiến dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát đại dịch sẽ thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ, với dự báo tăng 5,5%, đóng góp 2,3 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP trong năm nay, theo phân tích của ADB, và ngân hàng này cho rằng: “Giải ngân tăng sẽ thúc đẩy hoạt động xây dựng và các hoạt động kinh tế liên quan”.
Việc tăng cường phối hợp giữa chính quyền trung ương và địa phương và sự dịch chuyển lao động phục hồi đang dần khôi phục niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực, có hiệu lực từ ngày 1-1-2022, dự kiến sẽ thúc đẩy hoạt động thương mại khi đại dịch Covid-19 lắng xuống, hình thành các thị trường xuất khẩu ổn định và đáng tin cậy cho Việt Nam.
Tiềm ẩn rủi ro ngắn hạn
ADB: Kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức 6,5% năm 2022 nhưng tiềm ẩn rủi ro ngắn hạn. Ảnh minh họa: Hùng Lê
Tuy nhiên, Báo cáo phát triển triển vọng phát triển châu Á và tình hình phát triển kinh tế Việt Nam năm 2022 của ADB cũng nêu những rủi ro trong ngắn hạn có thể cản trở sự phục hồi của kinh tế Việt Nam.
Tình trạng nhiễm Covid-19 cao kể từ giữa tháng 3, nếu không được giảm bớt, có thể cản trở sự quay trở lại trạng thái bình thường của nền kinh tế trong năm nay. Nền kinh tế toàn cầu phục hồi chậm lại và giá dầu thế giới tăng mạnh do cuộc chiến giữa Nga và Ukraine đã ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu và lạm phát của Việt Nam.
Hơn nữa, những bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu và việc các nền kinh tế tiên tiến ngừng thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng sẽ làm suy yếu đồng nội tệ của Việt Nam, làm cho nhập khẩu đắt hơn và gia tăng áp lực lạm phát.
Tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam. Nợ xấu gia tăng là một rủi ro khác trong trung hạn. Nếu tính thêm các khoản cho vay được cơ cấu lại vẫn giữ nguyên nhóm nợ, tỷ lệ nợ xấu tiềm năng của Việt Nam ước tính là 8,2% tổng dư nợ.
Báo cáo nhấn mạnh, bên cạnh việc chi phí vật liệu xây dựng tăng nhanh, thủ tục giải ngân vốn đầu tư công phức tạp có thể làm chậm việc triển khai chương trình ERDP của Việt Nam, giảm tác động mong muốn đối với tăng trưởng.
Bên cạnh đó, tổng mức hỗ trợ lãi suất lên đến 40.000 tỉ đồng (khoảng 1,7 tỉ đô la). Đây là cấu phần tài khóa chính của ERDP, dự kiến sẽ thúc đẩy tổng cầu. Tuy nhiên, do mức độ tín nhiệm và khả năng hồi phục là những điều kiện quan trọng để doanh nghiệp có thể tiếp cận các khoản vay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể không đáp ứng được các tiêu chí này do tình hình tài chính và năng lực của họ đã bị suy yếu vì đại dịch Covid-19, tài liệu của ADB nêu.
Một mối quan ngại khác, theo báo cáo, là chương trình hỗ trợ lãi suất có thể gặp rủi ro do các khoản vay được trợ cấp bị sử dụng sai mục đích, bao gồm đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro, như cổ phiếu hoặc bất động sản. Điều này đã xảy ra với một chương trình tương tự vào năm 2009.
“Để tránh xảy ra tình huống này một lần nữa, cần phải có hướng dẫn rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan nhằm tăng cường giám sát việc thực hiện ERDP”, báo cáo khuyến nghị.
Một cấu phần tài khóa quan trọng khác của ERDP là giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT) trong năm 2022 cho các sản phẩm và dịch vụ hiện đang chịu mức thuế VAT 10%. Tổng giá trị cắt giảm thuế khoảng 49.000 tỉ đồng (khoảng 2,1 tỉ đô la).
Trong báo cáo của ADB cũng nhận định: “Việc giảm thuế VAT có thể tạo ra các tác động chuyển tiếp đáng kể và trên diện rộng nếu được thực hiện thành công. Tuy nhiên, các tiêu chí đáp ứng điều kiện và thủ tục rất phức tạp có thể hạn chế khả năng tiếp cận của doanh nghiệp đối với chính sách giảm thuế VAT. Cần có các tiêu chí về đáp ứng điều kiện và thủ tục rõ ràng hơn để hỗ trợ thực hiện chính sách giảm thuế VAT một cách nhanh chóng”.